(Cosmolife.vn) Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng một số liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư có thể làm giảm khả năng sinh sản. Điều đó có nghĩa là các phương pháp này có thể ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản và nội tiết tố của bệnh nhân nữ sau khi điều trị thành công, làm tiền đề cho các nghiên cứu sâu hơn về các biện pháp phòng ngừa, chẳng hạn như đông lạnh trứng.
Thử nghiệm lâm sàng do Viện Nghiên cứu Y sinh của Đại học Monash và Trung tâm Nghiên Cứu Điều Trị Ung thư Peter MacCallum thực hiện đã cho thấy các chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch (Immune checkpoint inhibitors – ICIs), một loại thuốc điều trị miễn dịch phổ biến, đã gây ra tổn thương vĩnh viễn cho buồng trứng và trứng lưu trữ bên trong.
Các liệu pháp điều trị ung thư truyền thống, chẳng hạn như hóa trị và xạ trị, vốn đã gây ra các tác dụng phụ không mong muốn lên buồng trứng, có thể dẫn đến khả năng vô sinh và mãn kinh sớm ở trẻ em gái và phụ nữ. Được công bố trên tạp chí Nature Cancer, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng liệu pháp miễn dịch ức chế điểm kiểm soát đã làm giảm số lượng và chất lượng trứng của bệnh nhân, cản trở quá trình rụng trứng và làm gián đoạn chu kỳ sinh sản. Cho đến nay, liệu pháp miễn dịch này đang trở nên phổ biến trong việc điều trị bệnh ung thư nhờ gia tăng hệ miễn dịch, tuy nhiên các tác dụng phụ tiềm ẩn đối với khả năng sinh sản vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Nghiên cứu đã phát hiện ra một loại liệu pháp miễn dịch có tên gọi chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch, vừa giúp hệ thống miễn dịch "thả phanh" để tăng cường khả năng chiến đấu với bệnh ung thư, nhưng có thể làm suy giảm khả năng sinh sản ngay lập tức và cả trong tương lai.
Các tác giả của báo cáo nhận định rằng họ cần tiến hành nghiên cứu ở các bệnh nhân nữ để kiểm chứng các phát hiện này. Trong khi đó, cần xem xét việc bảo vệ khả năng sinh sản thông qua trữ lạnh trứng hoặc phôi đối với những phụ nữ đang sử dụng các liệu pháp miễn dịch này. Đồng tác giả Bà Lauren Alesi, nghiên cứu sinh Tiến sĩ tại Phòng thí nghiệm Sinh học buồng trứng của Viện Nghiên cứu Y sinh, Đại học Monash, cho biết các nghiên cứu trên người cần phải được ưu tiên. Bà Alesi cho biết: “Ban đầu những phương pháp điều trị này được cho là ít gây tổn hại hơn (so với hóa trị và xạ trị) nếu chỉ xét đến các tác dụng phụ đối với cơ thể nói chung. “Tuy nhiên, hiện nay có thể thấy được các tác dụng phụ gây viêm ở các hệ cơ quan khác là khá phổ biến khi sử dụng các loại thuốc này. Nghiên cứu của chúng tôi nhấn mạnh rằng các bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân, những người quan tâm đến khả năng sinh sản cần phải thận trọng. Các nghiên cứu ở phụ nữ sử dụng các loại thuốc này cần phải được ưu tiên”.
Giáo sư Sherene Loi, chuyên gia về ung thư vú của Trung tâm Ung thư Peter MacCallum là tác giả chính của nghiên cứu, cho biết cần các nghiên cứu sâu hơn về tác động của các liệu pháp này đến chức năng của buồng trứng và khả năng sinh sản của phụ nữ đang sử dụng thuốc này cũng cần phải được ưu tiên và nên được đưa vào các thử nghiệm lâm sàng trong tương lai đối với phụ nữ đang trong độ tuổi sinh sản. “Nghiên cứu của chúng tôi cũng nhấn mạnh thêm rằng các trao đổi về khả năng sinh sản là rất quan trọng đối với tất cả phụ nữ ở mọi lứa tuổi, những người được khuyến nghị hóa trị cũng như tiếp nhận liệu pháp miễn dịch,” Giáo sư Loi nói. “Có thể thực hiện các biện pháp can thiệp thích hợp để bảo vệ khả năng sinh sản và chức năng buồng trứng để tạo điều kiện cho việc mang thai trong tương lai, sau khi hoàn thành việc điều trị ung thư. Các biện pháp can thiệp này phải được thực hiện kịp thời để không làm trì hoãn quá trình điều trị ung thư. Liệu pháp miễn dịch hiện đang trở thành một tiêu chuẩn chăm sóc cho nhiều bệnh nhân nữ bị ung thư vú giai đoạn đầu, nhờ vào kết quả ấn tượng trong việc giảm tái phát, nhưng tác dụng lâu dài của liệu pháp này cần phải được nghiên cứu thêm.”
Ngoài các loại thuốc ức chế gia tăng hormone trong quá trình hóa trị và các chiến lược ngăn ngừa mãn kinh sớm ở phụ nữ trẻ, bà Alesi khẳng định trữ lạnh trứng và phôi là biện pháp duy nhất hiện có. Bà chia sẻ thêm điều quan trọng cần nhớ là trữ lạnh phôi rất tốn kém và không ngăn chặn được tổn thương buồng trứng. Điều này có nghĩa là mãn kinh sớm vẫn có thể là một nguy cơ đối với những bệnh nhân nữ này. “Do đó, chúng tôi hiện đang ưu tiên nghiên cứu chuyên sâu các chiến lược bảo tồn buồng trứng có mục đích nhằm ngăn chặn nguy cơ tổn thương buồng trứng ngay từ đầu, mà không ảnh hưởng đến khả năng hiệu quả của thuốc điều trị ung thư”. Bà Alesi cho biết các loại trị liệu miễn dịch khác cũng cần được đánh giá. “Kết quả của chúng tôi có thể có ý nghĩa đối với các liệu pháp miễn dịch khác, vì kết quả của chúng tôi đã cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa các tế bào miễn dịch, các phân tử liên lạc (cytokine) được giải phóng và điều tiết nhiều khía cạnh của khả năng sinh sản,” bà nói.
Trứng của chuột thí nghiệm. Nguồn: Tiến sĩ Jessica StringerTóm tắt nghiên cứu: Mất khả năng sinh sản là một mối quan tâm lớn đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh sản đã điều trị ung thư thành công, vì tác dụng phụ khá phổ biến của các liệu pháp điều trị ung thư thông thường là gây tổn thương vĩnh viễn cho buồng trứng. Trong khi liệu pháp miễn dịch ngày càng trở thành một tiêu chuẩn chăm sóc cho nhiều bệnh ung thư - bao gồm cả trong điều trị - tác động của chúng đối với chức năng buồng trứng và khả năng sinh sản vẫn chưa được làm rõ. Chúng tôi đã đánh giá tác động của các chất ức chế điểm kiểm tra miễn dịch PD-L1 và CTLA-4 trên buồng trứng bằng cách sử dụng các vật mẫu trên chuột có khối u và không có khối u. Chúng tôi thấy rằng sự ức chế điểm kiểm soát miễn dịch làm tăng sự thâm nhập tế bào miễn dịch và biểu hiện yếu tố hoại tử khối u-α trong buồng trứng, làm giảm dự trữ nang noãn và khả năng trưởng thành và rụng trứng của tế bào trứng. Những dữ liệu này chứng minh rằng các chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch có nguy cơ làm giảm khả năng sinh sản cả trước mắt và trong tương lai, và các nghiên cứu ở phụ nữ nên được ưu tiên. Ngoài ra, việc bảo tồn khả năng sinh sản cần được xem xét mạnh mẽ đối với những phụ nữ được điều trị bằng liệu pháp miễn dịch này, và các chiến lược phòng ngừa cần được nghiên cứu trong tương lai.
Text: Thị Dân - Cosmolife.vn | Source: Đại học Monash